Với những đóng góp của mình, ông đã vượt qua 131 ứng viên đến từ 25 nước trên thế giới, được Uỷ ban Giải thưởng Cosmos quốc tế (International Cosmos Prize) chọn trao giải thưởng năm 2008. Đây là giải thưởng lần thứ 16, được trao bởi Quỹ Expo 90 (Expo 90 Foundation) và ông là người Việt Nam đầu tiên được tặng Giải thưởng này. Dự kiến Lễ trao giải sẽ diễn ra tại thành phố Osaka (Nhật Bản) vào đầu tháng 11 tới. Ngoài Bằng khen và Huy chương, GS Phan Nguyên Hồng sẽ được nhận khoản tiền thưởng trị giá 40 triệu yên, tương đương khoảng 380.000 USD.
Lặng lẽ, đam mê nghiên cứu, luôn nỗ lực vượt qua khó khăn để tìm kiếm chân lý, bảo vệ quan điểm khoa học đến cùng trước những khó khăn, thách thức; khi thành công, không phô trương, không náo nhiệt... đó là vài nét phác thảo về chân dung GS-TSKH-NGND Phan Nguyên Hồng. ở tuổi 73, với thân hình nhỏ bé, có một chút khắc khổ nhưng ai đó có dịp tiếp xúc với ông sẽ không khỏi ngỡ ngàng trước phong thái giản dị, sự miệt mài, đam mê và kiến thức uyên thâm của ông về các HST nói chung và HST RNM nói riêng. Đó cũng là những gì ông đã và đang cống hiến, giúp khôi phục nhiều vùng RNM đã bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, bảo tồn và phát triển HST rừng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng này.
Từ sự tình cờ đến niềm đam mê nghiên cứu HST RNM
Năm 1954, khi cuộc Kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta vừa giành thắng lợi, Phan Nguyên Hồng đã rời quê hương (xã Đức Vĩnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh) tham gia đội thanh niên xung phong đi khôi phục tuyến đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn; sau đó thi đỗ vào Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (khoá 1). Sau khi tốt nghiệp, ông được phân công làm giáo viên Trường Sư phạm Trung cấp Trung ương (1956-1958) và từ tháng 8.1958, ông giảng dạy tại Bộ môn Thực vật học (tiền thân của Bộ môn Sinh thái học) thuộc Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Năm 1964, khi tỉnh Quảng Ninh có chủ trương xây dựng quy hoạch về tự nhiên, kinh tế - xã hội, nhận lời mời của Bí thư Tỉnh uỷ Nguyễn Bá Trân lúc bấy giờ; GS Lê Bá Thảo (giảng viên đầu tiên của Bộ môn Địa lý, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội) đã dẫn một đoàn cán bộ (trong đó có Phan Nguyên Hồng) đi làm việc và nghiên cứu tại Quảng Ninh với thời gian gần 1 năm. Trong quá trình nghiên cứu thực tế, ông đã phát hiện được nhiều điều thú vị về RNM, từ đó ông say mê đi theo hướng nghiên cứu HST RNM. Thời gian này, Đế quốc Mỹ bắt đầu đánh phá ra miền Bắc, tất cả các trường đại học phải sơ tán khỏi Hà Nội, trong đó Trường Đại học Sư phạm Hà Nội phải sơ tán lên Đại Từ, Thái Nguyên. Nghịch lý cho niềm đam mê của ông lúc này là nghiên cứu về vùng biển mà lại phải làm việc tại miền núi. Không vì thế mà từ bỏ niềm đam mê, ông đã đề nghị với Ban Chủ nhiệm Khoa cho mình được tiếp tục nghiên cứu RNM tại các vùng ven biển miền Bắc. Ông đã đề nghị được dạy bù để có một số ngày trong tuần đến vùng ven biển nghiên cứu về RNM. Kể lại những kỷ niệm về thời gian vừa giảng dạy tại Thái Nguyên, vừa nghiên cứu RNM, mắt ông ánh niềm xúc động và say mê trong quá khứ gian khổ nhưng thú vị. Một lần, vào năm 1966, ông cùng một đồng nghiệp đạp xe từ Thái Nguyên về Tiên Yên và Đầm Hà (Quảng Ninh), đêm đi, ngày trú tạm ở hang đá, phải mất 4 ngày đêm mới tới được điểm nghiên cứu. Đến nơi, ông cùng đồng nghiệp lại bị bà con Hoa kiều bắt giam 2 ngày do nghi ngờ là biệt kích của Tưởng Giới Thạch. Sau khi được minh oan và được thả thì nước triều đã lên, không thể nghiên cứu được nữa. Vậy là chuyến đi 10 ngày (cả đi và về) vượt rừng, lội suối, chịu đói, chịu khát mà không thu được kết quả nào. Mặc dù khó khăn là vậy, nhưng nhiệt huyết của ông với RNM không hề suy giảm mà ngược lại, nó càng thôi thúc ông tự tìm tòi, nghiên cứu, tích luỹ tri thức.
Vào những năm 70, thật khó để có thể hoàn thành một luận án phó tiến sỹ (nay là tiến sỹ) ở trong nước. Tuy nhiên, được sự khuyến khích của GS Nguyễn Cảnh Toàn (Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội lúc đó), ông đã tự viết luận án, Trường đã gửi bản tóm tắt luận án sang Liên Xô và được các đồng nghiệp của nước bạn đánh giá cao. Ban Giám hiệu Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tổ chức bảo vệ luận án cấp 2 cho 3 cán bộ của Trường vào năm 1970 (trong đó có ông). Sau đó, Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp (nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo) làm lễ công nhận là những Phó tiến sỹ đầu tiên trong nước Từ thành công này, ông đã được Nhà nước giao làm chủ nhiệm nhiều đề tài cấp nhà nước về HST RNM, về hậu quả của chiến tranh hoá học của vùng RNM, sử dụng một phần RNM vào nuôi tôm có hiệu quả... và đã hoàn thành xuất sắc các đề tài trên. Chính nền tảng kiến thức tích luỹ được cùng niềm đam mê và những trải nghiệm qua các đề tài cấp nhà nước là cơ sở để ông hoàn thiện và bảo vệ thành công luận án TSKH vào năm 1991. Có thể nói, cả hai luận án của ông đều là quá trình tự tìm tòi, nghiên cứu, bởi lẽ ở Việt Nam lúc này hầu như chưa có chuyên gia về HST RNM, còn quan hệ quốc tế trong khoa học lúc bấy giờ chủ yếu là với Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu, mà họ thì không có nhiều kinh nghiệm về HST nhiệt đới. Cũng trong năm 1991, ông đã được Nhà nước phong học hàm GS.
Tích cực tuyên truyền, vận động người dân tham gia khôi phục, bảo vệ, phát triển RNM và đào tạo đội ngũ kế cận
Vùng ven biển có 3 HST: HST gần bờ (rừng ngập mặn nằm ở cửa sông, ven biển, bị ngập nước mặn định kỳ theo thuỷ triều); HST có biển (nằm ở trong nước biển); HST sản xuất khô. Đây là 3 HST rất quan trọng, nếu mất sẽ dẫn đến hậu quả rất nghiêm trọng về kinh tế, môi trường đối với vùng ven biển. Từ năm 1970, các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng, RNM có vai trò rất quan trọng đối với sự hình thành và phát triển của nhiều loài hải sản (là nơi sinh sản, lá của cây rừng rụng xuống sẽ được vi sinh vật phân huỷ tạo ra nguồn thức ăn cho hải sản). ở đâu có RNM thì ở đó có nhiều hải sản và ngược lại. Thực tiễn ở vùng RNM Cần Giờ đã chứng minh điều này (khi chiến tranh, chất độc màu da cam đã làm rụng hết lá cây rừng, số lượng hải sản giảm đi; sau này, khi phục hồi lại rừng, các loài hải sản đã phát triển nhanh chóng). Không những tạo nên nguồn thức ăn cho hải sản, RNM còn có vai trò bảo vệ vùng ven biển. Qua trận động đất và sóng thần ngày 26.4.2004 ở ấn Độ Dương, các nhà khoa học đã nghiên cứu và khẳng định vai trò to lớn của RNM trong vấn đề giảm thiểu tác hại của sóng thần. ở Việt Nam, các cơn bão số 2, 6, 7 năm 2005 đã làm cho nhiều địa phương ven biển do không có RNM hay có RNM nhưng đã bị phá đi đều bị thiệt hại rất nặng nề (cho dù nhiều nơi đã có đê quai bê tông bảo vệ), trong khi những nơi khác có RNM thì thiệt hại không đáng kể.
Để khôi phục, bảo tồn và phát triển các HST nói chung và HST RNM nói riêng, nhận thức, thái độ và hành vi của người dân có ý nghĩa và vai trò hết sức quan trọng. Nhà khoa học cho dù có tâm huyết và tài ba đến đâu cũng sẽ không thành công trong việc bảo vệ và phát triển RNM nếu như không biết cách thu hút, thuyết phục người dân cùng làm theo. Theo GS Phan Nguyên Hồng thì vai trò của các HST nói chung và HST RNM nói riêng không phải lúc nào và ai cũng nhận thức được đầy đủ. Được sự hỗ trợ về tài chính của Nhà nước cũng như nhiều tổ chức phi chính phủ quốc tế khác, Trung tâm Nghiên cứu HST RNM (do ông làm Giám đốc) và MERD đã triển khai nhiều chương trình truyền thông, lớp tập huấn về vấn đề này. Nếu đi dọc vùng ven biển có RNM từ Quảng Ninh đến Hà Tĩnh, đặc biệt là Nam Định và Thái Bình hỏi người dân những nơi này về ý nghĩa của RNM, họ sẽ nói rất rõ về nó; hơn thế nữa, họ còn thay đổi hành vi ứng xử với RNM (không phá RNM, cùng nhau bảo vệ, tích cực trồng RNM). Đó là kết quả của việc tuyên truyền, giáo dục, vận động mà trong đó không thể không nhắc tới sự đóng góp quan trọng của ông và các cộng sự. Ông cùng các cán bộ của Trung tâm đã giúp đỡ kỹ thuật cho các địa phương ở 8 tỉnh phía Bắc trồng và phục hồi nhiều diện tích RNM phòng hộ với sự tài trợ kinh phí của các tổ chức phi chính phủ như: Quỹ cứu trợ Nhi đồng Anh (SCF-UK), OXFAM UK-I, Tổ chức Hành động phục hồi RNM Nhật Bản (ACTMANG), Hội Chữ thập đỏ Đan Mạch, Hội Chữ thập đỏ Nhật Bản... Ngoài ra, ông cũng đã chủ trì nhiều hội thảo quốc gia về HST RNM; phối hợp với Uỷ ban Con người và Sinh quyển (MAB) khu vực châu á - Thái Bình Dương tổ chức 2 hội thảo quốc tế và khu vực về các vùng chuyển tiếp (ECOTONE V&X), Hội thảo quốc tế Xây dựng dự án Khu sinh quyển Cần Giờ; phối hợp với các địa phương tổ chức các lớp tập huấn về kỹ thuật và tuyên truyền về lợi ích của RNM trong phòng chống thiên tai, tăng nguồn lợi hải sản; chỉ đạo xây dựng Trạm Nghiên cứu HST RNM tại xã Giao Lạc, huyện Giao Thuỷ, tỉnh Nam Định để làm địa điểm tập huấn cho cộng đồng địa phương ven biển, làm nơi nghiên cứu cho sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh; phối hợp với các hội chữ thập đỏ một số tỉnh ven biển để tổ chức nhiều đợt tuyên truyền giáo dục và triển lãm di động Vì màu xanh RNM”, thành lập các câu lạc bộ bảo vệ môi trường ven biển... Với những hoạt động trên, hiện nay ở nhiều xã ven biển không còn tình trạng phá RNM để lấy củi hoặc nuôi tôm tự phát...
Để góp phần đẩy mạnh sự nghiệp nghiên cứu, bảo vệ và phát triển RNM, GS Phan Nguyên Hồng luôn chú trọng nhiệm vụ đào tạo đội ngũ cán bộ. Từ khi thành lập Trung tâm Nghiên cứu HST RNM đến nay, ông đã tạo điều kiện cho 12 cán bộ bảo vệ thành công luận án tiến sỹ, hơn 20 cán bộ bảo vệ thành công luận văn thạc sỹ ở trong nước. Ông cũng đã tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức phi chính phủ quốc tế để gửi đi đào tạo 10 tiến sỹ ở Nhật Bản (hiện 8 đã bảo vệ thành công luận án).
Những công việc mà GS Phan Nguyên Hồng đã và đang làm đã được Uỷ ban Giải thưởng Cosmos quốc tế nhìn nhận và đánh giá một cách khách quan. Ông đã qua 4 lần tuyển chọn, vượt qua 131 ứng viên đến từ 25 nước và trở thành người đoạt Giải thưởng này năm 2008. Đây là vinh dự lớn đối với ông, nhà khoa học đã cống hiến hơn 40 năm cho sự nghiệp nghiên cứu và phát triển RNM.
Vài nét về GS-TSKH-NGND Phan Nguyên Hồng:
Sinh ngày: 19.7.1935.
Quê quán: Xã Đức Vĩnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
Một số vị trí công tác: Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu HST RNM (Trường Đại học Sư phạm Hà Nội); nguyên Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường (Đại học Quốc gia Hà Nội) - phụ trách Ban Nghiên cứu HST RNM (MERD); Phó Chủ tịch Hội sinh thái học Việt Nam; Uỷ viên BCH Hội Sinh học Việt Nam; Uỷ viên BCH Hiệp hội HST RNM quốc tế; Uỷ viên Hội đồng Tư vấn khoa học và công nghệ thuộc Ban Chỉ đạo Quốc gia khắc phục hậu quả chất độc hoá học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam (Văn phòng 33).
Hoạt động nghiên cứu khoa học: 1970: Bảo vệ luận án Phó tiến sỹ (nay là Tiến sỹ); 1991: Bảo vệ luận án TSKH, được Nhà nước phong học hàm GS; từ 1980 đến nay: Chủ nhiệm 7 đề tài cấp nhà nước và 2 đề tài cấp bộ; tổ chức nhiều đợt truyền thông và tập huấn về bảo vệ RNM và HST đất ngập nước vùng ven biển; biên soạn 8 cuốn sách chuyên khảo liên quan đến tài nguyên, môi trường ven biển; chủ trì 8 hội thảo quốc gia về quản lý đất ngập nước ven biển và RNM; đăng tải hàng trăm công trình trên các tạp chí trong và ngoài nước
Khen thưởng: Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhì; Huân chương Lao động (hạng Nhất và hạng Nhì); Danh hiệu Nhà giáo Ưu tú, Nhà giáo Nhân dân; Huy chương Vì sự nghiệp giáo dục, “Vì sự nghiệp bảo vệ và phát triển rừng, “Vì sự nghiệp phát triển nghề cá; Chiến sỹ thi đua toàn quốc (từ năm 1991 đến 1999); Giải thưởng xuất sắc về Bảo vệ môi trường năm 2005; Giải thưởng Cosmos quốc tế năm 2008.
|
Vũ Hưng