Tóm tắt bài báo:
Ba Lạt là cửa sông lớn nhất ở miền Bắc Việt Nam, đóng vai trò quan trọng như vùng ươm dưỡng tự nhiên cho nhiều loài cá. Mặc dù đã ghi nhận sáu loài cá ngần (Osmeriformes: Salangidae) ở giai đoạn trưởng thành tại khu vực này, song các thông tin về giai đoạn phát triển sớm của chúng còn rất hạn chế. Nghiên cứu này nhằm khảo sát quá trình phát triển hình thái (ontogeny) và sự phân bố của các loài cá ngần dựa trên các mẫu thu được bằng lưới ven bờ ở khu vực cửa Ba Lạt trong giai đoạn 2018–2020.
Kết quả nghiên cứu xác định ba loài cá ngần gồm Leucosoma chinensis, Neosalanx brevirostris, và Parasalanx cuvieri ở giai đoạn ấu trùng và cá con. Các loài này có đặc điểm hình thái chung là thân thon dài, vây bụng nằm ở giữa thân và các vây lưng, vây hậu môn lùi về phía sau, gần vây đuôi. Các đặc điểm hình thái như vị trí của vây lưng, vây hậu môn và số lượng đốt cơ (myomere) được sử dụng để phân biệt giữa các loài.
Ấu trùng và cá con xuất hiện từ tháng 2 đến tháng 5, tập trung chủ yếu ở vùng nước ven bờ vùng cửa sông, trong khi số lượng thu được ở rừng ngập mặn ít hơn. Mức độ phong phú thay đổi theo loài: L. chinensis xuất hiện nhiều nhất vào tháng 2, N. brevirostris phổ biến vào tháng 5 năm 2019, và chỉ ghi nhận ba cá thể P. cuvieri vào tháng 3. Dữ liệu thu được cho thấy các loài cá ngần trong khu vực này sinh sản từ tháng 12 đến tháng 2, trùng với thời kỳ nhiệt độ nước thấp nhất trong năm. Việc phát hiện các ấu trùng nhỏ hơn tại các điểm phía gần biển cho thấy khả năng các loài này sinh sản diễn ra ở vùng khơi, sau đó ấu trùng được thủy triều đưa vào vùng cửa sông.
Những kết quả này góp phần làm sáng tỏ vai trò sinh thái của hệ sinh thái rừng ngập mặn rộng lớn tại cửa Ba Lạt đối với các loài cá, đồng thời nâng cao hiểu biết về quá trình phát triển của họ Salangidae và cung cấp thông tin quan trọng phục vụ công tác bảo tồn và quản lý hệ sinh thái ven biển này.

Hình 1. Trang đầu bài báo

Hình 2. Sơ đồ thể hiện các địa điểm thu mẫu cá ngần ở giai đoạn ấu trùng và cá con tại cửa Ba Lạt, miền Bắc Việt Nam, trong giai đoạn 2018–2020

Hình 3. Các giai đoạn phát triển của Leucosoma chinensis tại cửa Ba Lạt: a) trước ấu trùng (9,2 mm BL, chiều dài cơ thể); b) ấu trùng (12,5 mm BL); c–e) sau ấu trùng (16,0–30,4 mm BL); f–g) cá con (40,2–63,2 mm BL)

Hình 4. Tỷ lệ chiều dài phần trước vây lưng và phần trước vây hậu môn so với chiều dài cơ thể của các loài cá ngần tại cửa Ba Lạt

Hình 5. Trình tự biến đổi tỷ lệ giữa các phần đo được so với chiều dài cơ thể của các loài cá ngần tại cửa Ba Lạt

Hình 6. Các giai đoạn phát triển của Neosalanx brevirostris tại cửa Ba Lạt: a–d) ấu trùng (19,0–35,8 mm BL); e) cá con (45,4 mm BL)

Hình 7. Các giai đoạn phát triển của Parasalanx cuvieri tại cửa Ba Lạt: a–c) sau ấu trùng (14,5–34,7 mm BL)

Hình 8. Tần suất kích thước của các loài cá ngần tại cửa Ba Lạt: a) Leucosoma chinensis ở dòng chính cửa Ba Lạt; b) Leucosoma chinensis trong rừng ngập mặn; c) Neosalanx brevirostris ở KVNC (chỉ ghi nhận hai cá thể trong rừng ngập mặn); d) Parasalanx cuvieri ở KVNC (chỉ xuất hiện ở dòng chính cửa Ba Lạt)
Nguồn bài: PGS.TS. Trần Đức Hậu - Bộ môn Động vật học