Thầy có một gia đình rất hạnh phúc. Vợ thầy là cô giáo, ngoài việc ở trường, cô đảm nhiệm hết công việc nội trợ, chăm sóc con cháu chu đáo; ba người con của thầy cô đều thành đạt. Thầy cũng giành thời gian cần thiết cho gia đình và sống rất hài hòa.
Thầy là người tự chủ, có kế hoạch phấn đấu lâu dài, luôn thành công và được kính trọng. Từ tuổi đi học thầy đã tự hỏi vì sao chăm học mà chưa học giỏi, từ đó nghĩ cách phân đoạn để tìm ý chính của bài học; tự nghĩ phải phấn đấu không mệt mỏi để cải tạo bản thân. Khi trưởng thành, thầy tâm niệm học tập để công tác tốt hơn rồi lại tiếp tục học tập; như vậychuỗi “công tác - học tập - công tác - học tập” là liên tục không thể cắt rời, nên thầy luôn sáng tạo trong công việc và giành được nhiều thắng lợi.
Suốt quá trình dạy học thầy luôn suy nghĩ làm sao để nâng cao chất lượng các bài giảng và tìm ra cách giải quyết. Ví dụ dùng hình vẽ minh họa giúp sinh viên nắm kiến thức nhanh hơn, dùng chuyện về đời sống các loài động vật để gây hứng thú cho người học. Để lưu giữ tài liệu tốt thầy nghĩ ra phương pháp bộ óc ngoài cơ thể (bộ hồ sơ gồm nhiều kẹp giấy rất tiện khi sử dụng). Thầy có sáng kiến cải tiến cách tiêm mầu vào động mạch, tĩnh mạch ở động vật rồi xây dựng thành quy trình tiêm mầu; tiếp theo là quy trình tự học có hướng dẫn, quy trình bắt rắn độc. Thầy nghĩ mỗi quy trình gồm nhiềucông đoạn nối tiếp nhau, mỗi công đoạn gồm nhiều công việc, mỗicông việc gồm nhiều động tác cụ thể. Thầy phân chia nội dung trong mỗi bài giảng thành hệ thống đơn vị kiến thức từ lớn đến nhỏ dần để lượng hóa và tự kiểm tra đánh giá được sau khi dạy hoặc học; như vậy sẽ dễ nhớ, khó quên.
Để kết hợp giảng dạy lý thuyết với thực hành, thầy xây dựng quy trình giải phẫu những bộ phận khó thực hiện như cấu tạo trong cầu mắt, tai trong của cá, van tim cá, cấu trúc bộ não cá và hệ thống dây thần kinh não, tủy.
Kết hợp dạy khoa học cơ bản với rèn luyện nghiệp vụ: Thầy đã hướng dẫn nhiều luận văn Tốt nghiệp đại học, luận văn Thạc sĩ về phân tích Sách giáo khoa phổ thông, xây dựng bộ câu hỏi TEST Động vật học có xương sống và Sinh thái động vật; thầy xây dựng 1587 câu hỏi trắc nghiệm dùng trong hướng dẫn ôn tập, kiểm tra, thi cho lớp Chất lượng cao.
Để gắn giảng dạy với nghiên cứu khoa học, từ những năm 1960 thầy đã cùng cụ Kaliusep (chuyên gia Liên Xô) đi bắt rắn với người dân Lệ Mật, Hà Nội; nuôi ếch, nuôi trăn ở phòng thí nghiệm. Năm 1961 thầy đã có 2 bài báo khoa học: Sơ bộ điều tra rắn ở những vùng xung quanh Hà Nội và Sơ bộ điều tra lưỡng thê vùng Chi Nê. Sau đó thầy đã chủ trì nhiều đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, cấp Nhà nước như: Khởi thảo các biện pháp nuôi rắn hổ mang và cơ sở sinh vật học; Nghiên cứu chăn nuôi và bảo vệ những loài bò sát có tầm quan trọng kinh tế và quí hiếm ở Việt Nam. Những đề tài này lại gắn với đào tạo Thạc sĩ, Tiến sĩ; được Hội đồng nghiệm thu đánh giá cao về tính sáng tạo và giá trị khoa học
Để có dẫn liệu Việt nam hóa giáo trình, thầy cùng sinh viên điều tra khảo sát thành phần loài ếch nhái, bò sát ở Ký Phú (Bắc Thái) - nơi sơ tán của khoa Sinh học, Đại học Tổng hợp. Ở Hà Sơn Bình - nơi sơ tán của khoa Sinh, Đại học Sư phạm; thầy quan sát hiện tượng giao phối tập thể của 6 rắn ráo trên bụi tre ở xã Long Xuyên, tính mật độ của ngóe trên đê Triệu Xuyên. Tại Vườn quốc gia Cúc Phương thầy theo dõi hàng giờ việc giao hoan, giao phối của ếch cây chân đen và một số nơi khác trên đất nước rồi viết sách cho mọi người tham khảo.
Thầy cũng sớm nhận ra vai trò của ngoại ngữ, nên khi làm nghiên cứu sinh thầy đã tăng cường tối đa việc liên hệ giữa kết quả nghiên cứu với tài liệu tham khảo. Thầy đọc rất nhiều sách, báo; trong luận án phó tiến sĩ của thầy có đến 40 tài liệu tham khảo tiếng Nga và 245 tài liệu tiếng Anh, tiếng Pháp.
Thầy là người luôn làm việc với cường độ cao. Theo thầy, có được như thế là do thầy rất cần cù học tập, rút kinh nghiệm từ cách suy nghĩ, diễn đạt, lối sống của các thầy giáo. Thầy đã viết luận án Tiến sĩ khoa học để bảo vệ trong thời gian rất ngắn, 6 tháng làm thực tập khoa học và 6 tháng viết luận án bảo vệ.
Trong hồi ký thầy ghi tên rất nhiều người: Thầy Đào Văn tiến là nhà sư phạm mẫu mực, tận tâm với nghề nghiệp, rất nghiêm khắc, không chỉ dạy kiến thức mà còn quan tâm đến tác phong, đạo đức phẩm chất, tính cách của một người nghiên cứu khoa học. Thầy Lê Quang Long có bài giảng được cấu trúc độc đáo, nhuần nhuyễn giữa khái niệm, định nghĩa với các ví dụ chính xác; đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật dạy học.
Thầy chân tình biết ơn những người bạn cùng lớp, từ mỗi người bạn thầy tìm ra những nét riêng đáng học (ông Hải sắc sảo, ông Dậutự tin, ông Dũng lanh lợi, ông Hảo chững chạc, ông Bảo nghiêm túc, ông Lộc thẳng thắn, ông Nhuận thông minh, ông Hồng nghị lực phi thường, ông Vinh có bàn tay vàng, Ông Phái tiếng Pháp cực kỳ). Thực sự họ đều là những nhà chuyên môn giỏi, nhà giáo uy tín (trong đó có 2 ông bảo vệ cả bằng Phó tiến sĩ và bằng Tiến sĩ khoa học trong một thời gian ngắn; 2 ông khác là thành viên được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về Khoa học và Công nghệ, 2 ông là đại biểu Quốc hội, 2 ông là Thứ trưởng bộ Giáo dục và Đào tạo).
Thầy rất trân trọng và biết ơn các thầy giáo và những người đã giúp đỡ: Thầy Lê Khả kế là ân nhân đầu tiên mở cửa cho thầy đi vào con đường dẫn đến thắng lợi, thầy Đào Văn Tiến cho thầy kim chỉ nam trên con đường nghiên cứu khoa học và đào tạo. Thầy kính trọng những thầy giáo đã dạy thầy ở trường PTTH Chu Văn An, trường ĐHSP Khoa học Hà Nội như các thầy: Trần Gia Huấn, Nguyễn Ngọc Cư; Lê Khả Kế, Đào Văn Tiến, Nguyễn Văn Chiển, Nguyễn Đình Ngỗi, Lê Quang Long, Dương Hữu Thời, Trịnh Bỉnh Di, Trương Cam Bảo …. Thầy luôn nhớ những nhà khoa học Liên xô cũ: Giáo sư I.I. Kaliusép người khuyên thầy đi vào chuyên ngành ếch nhái bò sát, Giáo sư P.V. Terentiev chuyên gia đầu ngành lưỡng cư bò sát và Viện sĩ viện Hàn lâm khoa học Liên xô I.S. Darevski đã trực tiếp giúp đỡ, hướng dẫn thầy hoàn thành luận án Phó tiến sĩ, luận án Tiến sĩ khoa học.
Thầy không quên những người đã cộng tác như các GS TSKH: Nguyễn Tài Lương, Đặng Huy Huỳnh, Trần Đình Lý, Vũ Quang Côn; các anh, các chị: Ngô Thị Kim, Lê Phú Khải, Vũ Thế Tuyến, Nguyễn Văn Sáng, Hồ Thu Cúc, Hà Huy Ngọ, Lê Xuân Cảnh, Tạ Huy Thịnh, Đặng Ngọc Cần, Nguyễn Xuân Đặng, Hoàng Minh Khiên, Nguyễn Cử, Lê Đình Thủy, Đặng Tất Thế, Nguyễn Quảng Trường, Nguyễn Trường Sơn …
Thầy tâm sự: Trong 50 năm qua, hầu như chưa có lúc nào tôi tự cho phép mình được nghỉ ngơi. Thầy đã góp phần chứng minh chân lý “Ở đời, bất kỳ một công việc dù khó khăn đến mấy, nếu quyết tâm học để làm thì việc gì cũng có thể làm được”.Thầy khuyên học trò “hãy giành trí tuệ, năng lực, lòng nhiệt tình của mình để cống hiến cho đất nước, cho khoa học nhiều hơn là nghĩ cho bản thân”.Sinh viên thích thầy vì thầy nhiệt tình, dễ gần, biết ngoại ngữ có thể giải đáp nhiều điều cần cho học tập và nghiên cứu.
Ngoài việc giảng dạy, nghiên cứu nhiều năm thầy còn là trưởng bộ môn, phó Chủ nhiệm, Chủ nhiệm khoa, Chủ tịch Hội đồng bộ môn Sinh học của các trường ĐHSP, Ủy viên thư ký Hội đồng Học hàm Nhà nước chuyên ngành Sinh học, phó Chủ tịch Hội đồng ngành Sinh học ĐH Quốc gia Hà Nội, Ủy viên BCH Hội Sinh học Việt nam, Phó Chủ tịch hội Động vật Việt Nam… ; ở cương vị nào thầy cũng đem hết nhiệt tình, khả năng cống hiến.
Thầy đã xuất bản 27 đầu sách chuyên ngành, giáo trình, giáo khoa, tham khảo và đăng nhiều bài báo trên các tạp chí khoa học, báo cáo tại hội nghị khoa học trong và ngoài nước. Từ 1976 đến 2002 thầy đã hướng dẫn hơn 20 thạc sĩ và học viên Cao học, hướng dẫn 7 NCS bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ (sau khi bảo vệ, một người là phó Hiệu trưởng nhiều năm ở một trường ĐH Sư phạm, 5 người là Chủ nhiệm, phó Chủ nhiệm khoa Sinh của 4 trường ĐHSP khác, 2 người là lãnh đạo chủ chốt ở 2 trường Cao đẳng).
Do có nhiều thành tích trên các lĩnh vực nên thầy đã được nhận bằng khen và phần thưởng của Bộ trưởng bộ Giáo dục các năm 1972, 1981, 1982, 1985; của Bộ trưởng bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp năm 1981,1985; Giải thưởng và Huy chương vàng của toàn liên bang CHXHCN Xô Viết cho thế hệ trẻ 1982, Bằng khen của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng 1982, Bằng khen và phần thưởng của UBND tỉnh Vĩnh Phú 1986, Bằng khen của Ủy ban Khoa học Kỹ thuật Nhà nước 1986, Bằng khen và giải thưởng Lao động sáng tạo của Tổng Liên đoàn Lao động Việt nam 1987. Được tặng thưởng Huân chương Hữu nghị của Chủ tịch Chính phủ nước CHDCND Lào 1983, Huân chương Kháng chiến hạng nhì của Hội đồng Nhà nước 1996, Huân chương Lao động hạng nhì của Chủ tịch nước 2000. Danh hiệu Chiến sĩ thi đua trong một số năm; Giáo viên dạy giỏi 1980, Huy chương Vì sự nghiệp giáo dục 1995, Nhà giáo ưu tú 1997, Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp Khoa học và Công nghệ, 2006; Giải thưởng Hồ Chí Minh cho cụm công trình Động vật chí Việt Nam, Thực vật chí Việt Nam, Sách Đỏ Việt Nam và Danh lục Đỏ Việt Nam do tập thể tác giả GS.TSKH. Trần Kiên và 44 đồng chủ biên cùng các cộng sự thực hiện do Chủ tịch nước CHXHCNVN Trương Tấn Sang kí ngày 20/1/2012.
Tôi may mắn được thầy hướng dẫn thực hiện, bảo vệ luận án Phó tiến sĩ và giúp đỡ suốt quá trình học tập, giảng dạy, nghiên cứu ở trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Tôi tự nghĩ những gì tôi đạt được chủ yếu là do công lao của thầy. Tôi luôn biết ơn và kính trọng thầy. Thầy đã để lại ấn tượng sâu sắc cho học trò, bạn bè và đồng nghiệp. Với tôi cũng như nhiều người học trò khác, thầy luôn là một nhà sư phạm mẫu mực, một nhà khoa học lớn nhiệt tâm, một người thầy hết lòng vì sự nghiệp trồng người. Thật khó có thể diễn tả hết về thầy và những cống hiến của thầy đối với sự nghiệp giáo dục của Việt Nam. Nhân dịp này, kính chúc thầy và gia đình vui khỏe, hạnh phúc.
|
Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2012
PGS.TS. Lê Nguyên Ngật
Bộ môn Động vật học, Khoa Sinh học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
|