Hội thảo có sự tham gia của Ban Chủ nhiệm Khoa, 6 báo cáo viên và toàn thể cán bộ, giảng viên từ 7 Bộ môn của Khoa Sinh học. Sau phần phát biểu chỉ đạo của PGS.TS. Nguyễn Lân Hùng Sơn, TS. Nguyễn Văn Quyền (Bộ môn Thực vật học) mở đầu chuỗi báo cáo với phần trình bày tóm tắt kết quả đề tài cấp Nhà nước: “Nghiên cứu xây dựng mô hình thử nghiệm nâng cao năng lực thực hiện phát triển bền vững ở các Khu dự trữ sinh quyển thế giới được UNESCO công nhận tại Việt Nam, góp phần thực hiện kế hoạch hành động LIMA”. Đây là đề tài liên ngành, với sự tham gia của nhiều lĩnh vực khoa học. Chủ nhiệm đề tài chia sẻ cách thức, kinh nghiệm khi triển khai thực hiện các hoạt động nghiên cứu ở địa phương, đặc biệt là ở các khu dự trữ sinh quyển thuộc nhiều đơn vị hành chính, hoặc có địa bàn rộng lớn. Đề tài hiện đã đạt được mục tiêu nâng cao năng lực phát triển bền vững và tăng cường kết nối cộng đồng, đặc biệt là với Ban quản lý các khu dự trữ sinh quyển và các bên liên quan.

Ảnh 1. Toàn cảnh Hội thảo

Ảnh 2. TS. Nguyễn Văn Quyền trình bày báo cáo tại Hội thảo
Tiếp theo, PGS.TS. Trần Thị Thanh Bình (Bộ môn Động vật học) giới thiệu đề tài Nafosted (2024–2027) “Nghiên cứu đa dạng và phân bố của rết (Arthropoda, Chilopoda) ở Đông Bắc Việt Nam bằng cách tiếp cận tích hợp hình thái và phân tử”. Mục tiêu đề tài nhằm làm rõ mức độ đa dạng loài và phân bố của rết tại khu vực nghiên cứu. Trong năm đầu tiên, nhóm nghiên cứu đã tiến hành khảo sát thực địa, thu mẫu và bước đầu định loại các loài thu được. Đề tài tạo điều kiện kết nối với các chuyên gia quốc tế, góp phần nâng cao năng lực chuyên môn cho nhóm nghiên cứu. Với đối tượng nghiên cứu gần gũi, phần trình bày thu hút nhiều thảo luận sôi nổi tại hội thảo, xoay quanh phương pháp thu mẫu, ảnh hưởng của địa hình và khí hậu đến hình thái rết, cũng như vai trò của kỹ thuật phân tử trong định loại loài.

Ảnh 3. PGS.TS. Trần Thị Thanh Bình chia sẻ tại Hội thảo
Báo cáo thứ ba tại Hội thảo do PGS.TS. Trần Đức Hậu (Bộ môn Động vật học) trình bày, giới thiệu đề tài cấp Bộ (2025-2026): “Nghiên cứu đặc điểm sinh học và đánh giá đa dạng di truyền quần thể một loài thuộc giống cá Bống trắng Glossogobius có giá trị kinh tế ở miền Bắc Việt Nam”. Mục tiêu đề tài là phân tích đặc điểm sinh học và đa dạng di truyền nhằm đề xuất các biện pháp bảo tồn các loài thuộc giống cá này. Mẫu vật sử dụng trong đề tài được thu thập từ Quảng Ninh đến Quảng Bình. Đề tài có sự tham gia của cán bộ từ nhiều bộ môn trong Khoa và mở ra hướng hợp tác đa ngành, liên quan đến các lĩnh vực di truyền, nuôi trồng, bảo tồn và môi trường.

Ảnh 4. PGS.TS. Trần Đức Hậu trình bày một số kết quả nghiên cứu của đề tài cấp Bộ
Tiếp theo hội thảo, PGS.TS. Nguyễn Phúc Hưng (Bộ môn Sinh lý người và động vật) trình bày báo cáo về đề tài Nafosted: “Nâng cao hiệu quả nuôi trồng thủy sản thông qua thay thế bột cá trong thức ăn bằng khô đậu tương lên men được bổ sung axit amin thiết yếu”. Xuất phát từ thực trạng giá thành bột cá tăng cao trong khi diện tích và sản lượng nuôi trồng thủy sản ngày càng mở rộng, đề tài hướng đến việc sử dụng khô đậu tương lên men làm nguồn thay thế bền vững, kết hợp bổ sung axit amin thiết yếu nhằm nâng cao giá trị dinh dưỡng. Trong quá trình triển khai, đề tài đã thu được một số kết quả bước đầu, công bố 2 bài báo trong nước và đang hoàn tất nội dung đào tạo. Báo cáo viên cũng chia sẻ một số khó khăn, như việc lấy mẫu trên động vật sống và quy trình thanh toán kinh phí cho hóa chất.

Ảnh 5. PGS.TS. Nguyễn Phúc Hưng báo cáo tại Hội thảo
Báo cáo thứ 5 tại Hội thảo do PGS.TS. Trần Thị Thúy (Bộ môn Công nghệ Sinh học – Vi sinh) trình bày với đề tài: “Đánh giá đa dạng nấm men và khả năng sinh các chất có hoạt tính sinh học của khu hệ nấm men trong mật, sáp ong tự nhiên ở vùng núi Tây Bắc, Việt Nam bằng chỉ thị phân tử”. Đề tài tập trung vào 5 nội dung chính: thu thập 18 mẫu; lựa chọn chỉ thị phân tử RAPD; đánh giá đa dạng di truyền, đa hình di truyền và hình thái của các chủng nấm men phân lập từ 6 tỉnh miền núi Tây Bắc; phân tích hoạt tính sinh học (kháng khuẩn, kháng nấm, sinh EPS,…); và tuyển chọn một số chủng có tiềm năng để nghiên cứu chuyển giao công nghệ. Bên cạnh việc chia sẻ các kết quả nghiên cứu, PGS.TS. Trần Thị Thúy cũng nêu rõ một số khó khăn trong quá trình triển khai như việc đề xuất và viết thuyết minh đề tài, cắt giảm kinh phí. Hội thảo cũng ghi nhận các trao đổi chuyên môn về phương pháp đánh giá enzyme ngoại bào, ảnh hưởng của số lượng mẫu đến kết quả, và tính đại diện của các chủng được tuyển chọn. Các câu hỏi đã được báo cáo viên và nhóm nghiên cứu giải đáp rõ ràng, tạo không khí trao đổi học thuật tích cực.

Ảnh 6. PGS.TS. Trần Thị Thúy trình bày kết quả nghiên cứu của đề tài tại Hội thảo
Báo cáo cuối cùng tại Hội thảo là phần trình bày của TS. Nguyễn Thị Trung Thu (Bộ môn Sinh lý người và động vật) với đề tài Trọng điểm cấp Trường: “Ảnh hưởng của tình trạng dinh dưỡng đến kết quả học tập của sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội – Một số giải pháp nâng cao kết quả học tập”. Đề tài khảo sát gần 4000 sinh viên và tập trung vào ba mục tiêu: đánh giá thực trạng dinh dưỡng và kết quả học tập; xác định mối liên hệ giữa tình trạng dinh dưỡng và kết quả học tập; đề xuất giải pháp cải thiện từ thực trạng dinh dưỡng. Sử dụng phương pháp điều tra làm công cụ chính, nhóm nghiên cứu gặp một số khó khăn như thu thập đủ số lượng phiếu khảo sát, đảm bảo độ chính xác của thông tin, và xử lý lượng lớn dữ liệu. Báo cáo đã thu hút sự quan tâm của nhiều giảng viên, đặc biệt về: tiêu chí chọn mẫu (nội trú, ngoại trú…), mối quan hệ nhân quả giữa dinh dưỡng và kết quả học tập, tiêu chuẩn xây dựng phiếu khảo sát, cũng như các vấn đề đạo đức nghiên cứu. TS. Nguyễn Thị Trung Thu đã chia sẻ cụ thể về phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đảm bảo tính đại diện, cách xin ý kiến đồng thuận của người tham gia, và vận dụng kinh nghiệm xây dựng bộ công cụ khảo sát từ các nghiên cứu trong lĩnh vực y học.

Ảnh 7. TS. Nguyễn Thị Trung Thu báo cáo tại Hội thảo

Ảnh 8. Hình ảnh tham gia thảo luận sôi nổi của các thầy cô tham dự Hội thảo
Sau phần trình bày kết quả nghiên cứu của 6 báo cáo viên, các ý kiến thảo luận sôi nổi từ giảng viên toàn Khoa và phần đề xuất hướng nghiên cứu từ các Bộ môn do PGS.TS. Trần Đức Hậu trình bày, PGS.TS. Nguyễn Lân Hùng Sơn – Trưởng khoa Sinh học – đã tổng kết Hội thảo với một số định hướng quan trọng. Thầy nhấn mạnh rằng nghiên cứu cơ bản là thế mạnh truyền thống của đội ngũ cán bộ Khoa, tuy nhiên cần tăng cường gắn kết với nghiên cứu ứng dụng để tạo ra các sản phẩm có tính đặc thù, mang thương hiệu của Khoa và Nhà trường. Đây cũng là xu hướng phù hợp với chiến lược phát triển trong giai đoạn tới. Ban Chủ nhiệm Khoa kỳ vọng các giảng viên phát huy thế mạnh chuyên môn, đồng thời đẩy mạnh kết nối liên ngành trong nghiên cứu, hình thành các hướng nghiên cứu chung và trọng điểm nhằm khai thác tối đa nguồn lực hiện có. Bên cạnh đó, Thầy Trưởng khoa cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của hợp tác quốc tế trong hoạt động nghiên cứu, định hướng phát triển các lĩnh vực mới như Công nghệ sinh học (gắn với mã ngành đào tạo mới), Kỹ thuật y sinh, và ứng dụng công nghệ số, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo, trong nghiên cứu khoa học.

Ảnh 9. PGS.TS. Nguyễn Lân Hùng Sơn phát biểu chỉ đạo tại Hội thảo
Tổng kết Hội thảo, PGS.TS. Trần Đức Hậu – Phó Trưởng Khoa Sinh học – gửi lời cảm ơn tới các báo cáo viên và toàn thể cán bộ đã tham gia thảo luận sôi nổi, góp phần tạo nên thành công của chương trình. Ban Chủ nhiệm Khoa mong tiếp tục nhận được sự đóng góp tích cực từ các thầy, cô trong việc đề xuất và lựa chọn các hướng nghiên cứu trọng điểm, liên ngành, nhằm xây dựng 3–4 định hướng lớn có khả năng kết nối đội ngũ và phát huy hiệu quả nguồn lực nghiên cứu của toàn Khoa.
Bài và ảnh: TS. Lê Thị Thủy - Trợ lý NCKH